logo
TẬP ĐOÀN CÔNG NGHIỆP CAO SU VIỆT NAM

Kinh tế số: Cơ hội hiện thực hóa khát vọng 'Việt Nam hùng cường' 23/03/2021

 

Trong bối cảnh Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đang phát triển mạnh mẽ, kinh tế số có vai trò quan trọng trong cơ cấu kinh tế mỗi quốc gia nói chung và Việt Nam nói riêng. Hiện nay, các hoạt động kinh tế số đã có sự tăng trưởng nhanh chóng và được Đảng, Nhà nước đặc biệt quan tâm, ưu tiên phát triển. Hành lang pháp lý đang ngày càng hoàn thiện cùng những khuyến khích, hỗ trợ của Nhà nước, kinh tế số Việt Nam đã phát triển không ngừng.

 

Nghị quyết số 52-NQ/TW, ngày 27/9/2019, của Bộ Chính trị, về một số chủ trương, chính sách chủ động tham gia cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đề ra mục tiêu đến năm 2025, kinh tế số chiếm tỷ lệ 20% GDP (Hiện nay chiếm khoảng 5% (12 Tỷ USD) - Theo báo cáo của Google và Temasek);

 

Quyết định số 749/QĐ-TTg ngày 3/6/2020 của Thủ tướng Chính phủ về việc ban hành "Chương trình Chuyển đổi số quốc gia đến năm 2025, định hướng đến năm 2030" với mục tiêu Việt Nam thuộc nhóm 50 nước dẫn đầu về chính phủ điện tử, liên quan đến phát triển kinh tế số, nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế, mục tiêu đến năm 2025 là kinh tế số chiếm 20% GDP; tỷ trọng kinh tế số trong từng ngành, lĩnh vực đạt tối thiểu 10%; đến năm 2030, kinh tế số chiếm 30% GDP; Tỷ trọng kinh tế số trong từng ngành, lĩnh vực đạt tối thiểu 20%.

 

 

Xu hướng phát triển mới

 

Thuật ngữ "kinh tế số" đã được đề cập từ khá lâu trước khái niệm Cách mạng công nghiệp (CMCN) 4.0. Tuy nhiên, chỉ khi CMCN 4.0 xuất hiện thì kinh tế số mới được nhắc đến nhiều hơn và trở thành xu thế phát triển, vì nó gắn với công nghệ hiện đại như: Trí tuệ nhân tạo, dữ liệu lớn, tài sản số... Hiện nay, có khá nhiều quan điểm, khái niệm về kinh tế số dù với sự lan tỏa của "số hóa" vào nền kinh tế thực thì việc phân định rạch ròi kinh tế số không đơn giản.

 

Theo định nghĩa của Nhóm cộng tác kinh tế số của Trường Đại học Oxford, kinh tế số là "một nền kinh tế vận hành chủ yếu dựa trên công nghệ số, đặc biệt là các giao dịch điện tử tiến hành thông qua internet". Kinh tế số đôi khi cũng được gọi là kinh tế internet, kinh tế mới hoặc kinh tế mạng... Ở Việt Nam, kinh tế số được hiểu là toàn bộ hoạt động kinh tế dựa trên nền tảng số và phát triển kinh tế số sử dụng công nghệ số và dữ liệu để tạo ra những mô hình kinh doanh mới. Trong nền kinh tế số, các doanh nghiệp sẽ đổi mới quy trình sản xuất, kinh doanh truyền thống sang mô hình theo hệ sinh thái, liên kết từ khâu sản xuất, thương mại đến sử dụng và điều này sẽ làm tăng năng suất, cũng như hiệu quả lao động.

 

 

Đặc trưng của Cách mạng công nghiệp lần thứ tư là sự hợp nhất về mặt công nghệ; khả năng kết nối thông qua các thiết bị di động và khả năng tiếp cận với cơ sở dữ liệu lớn, những tính năng xử lý thông tin sẽ được nhân lên bởi những đột phá công nghệ trên nhiều lĩnh vực. Xu hướng số hóa nền kinh tế và các hoạt động xã hội là nền tảng cho phép Cách mạng công nghiệp lần thứ tư bùng nổ, đang diễn tiến sâu sắc ở nhiều nước phát triển và diễn ra với tốc độ nhanh ở các nước đang phát triển. Hiện nay, một nửa dân số thế giới đã kết nối trực tuyến, một phần ba tham gia mạng xã hội, 53% là qua điện thoại di động và bao phủ ở mọi lứa tuổi, chủng tộc, địa lý và trình độ trên khắp hành tinh. Có thể nói, sự phát triển kỹ thuật số đã và đang thay đổi các nền kinh tế trên toàn cầu với tốc độ chóng mặt. Năm 2020, nền kinh tế số toàn cầu trị giá 15,5 nghìn tỷ USD, chiếm khoảng 15% GDP của thế giới; trong thập kỷ tới được kỳ vọng sẽ nâng lên tới mức 25% GDP của thế giới.

 

Cách mạng công nghiệp lần thứ tư tác động mạnh đến Việt Nam, tạo ra thời cơ mới cho Việt Nam hội nhập sâu rộng hơn và hiệu quả hơn vào nền kinh tế thế giới, tiến thẳng vào lĩnh vực công nghiệp mới, tranh thủ các thành tựu khoa học - công nghệ tiên tiến để đẩy nhanh hơn tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và thu hẹp khoảng cách phát triển. Kinh tế số thời gian gần đây đã có sự phát triển mạnh mẽ.  

 

 

Thực trạng phát triển kinh tế số ở Việt Nam

 

Những kết quả đạt được

 

Trong 10 năm qua, kinh tế số Việt Nam đã phát triển không ngừng về cả nền tảng hạ tầng lẫn thị trường kinh doanh. Hiện tại, Việt Nam có khoảng 64 triệu người (57% dân số) sử dụng internet và có tài khoản mạng xã hội. Cùng với sự thâm nhập ngày càng sâu rộng của internet, các thiết bị di động và mạng xã hội, logisctic nên ngày càng nhiều cá nhân tham gia mạng lưới thương mại điện tử. Có khoảng 28 triệu người (25% dân số) tham gia mua hàng trực tuyến qua mạng facebook, zalo, Lazada, Shopee, Sendo…. Việt Nam xếp thứ 13 trong top 20 quốc gia có số dân sử dụng mạng internet đông nhất thế giới. Năm 2020, thương mại điện tử ở Việt Nam tăng trưởng 18% với quy mô đạt 11,8 tỷ USD, đây là mốc tăng trưởng cao so với mức trung bình trên thế giới trong bối cảnh dịch bệnh Covid kéo dài.

 

Những hạn chế tồn tại

 

Mặc dù trong những năm qua Việt Nam cũng là nước duy nhất ở Đông Nam Á có tăng trưởng thương mại điện tử 2 con số. Tuy nhiên vẫn còn có những tồn tại hạn chế nhất định.

 

Một là, Việt Nam đi sau trong xu hướng kinh tế số; nhận thức, kiến thức của nhiều cán bộ, doanh nghiệp và người dân về kinh tế số, thời cơ và thách thức của nó đối với sự phát triển của đất nước còn chưa đồng đều. Thói quen giao dịch, thanh toán dùng tiền mặt, trả tiền khi nhận hàng của đa số người tiêu dùng là trở ngại lớn, làm tăng chí phí cho cả xã hội, doanh nghiệp và người dân.

 

Hai là, hệ thống thể chế, chính sách cũng như các thiết chế thực thi, giải quyết tranh chấp và hiệu lực của cơ quan thực thi liên quan đến phát triển kinh tế số còn yếu, chưa đồng bộ và hiệu quả nên chưa khai thác hết tiềm năng để phát triển kinh tế số.

 

Ba là, thách thức về an ninh mạng, bảo mật, an toàn thông tin. Việt Nam nằm trong top các quốc gia hứng chịu các cuộc tấn công mạng và lây nhiễm mã độc nguy hiểm. Theo thống kê của hãng bảo mật Kaspersky, năm 2020, có khoảng 34% người dùng internet Việt Nam có khả năng bị tấn công mạng. Theo tập đoàn công nghệ Bkav công bố chương trình đánh giá an ninh mạng Bkav thực hiện vào tháng 12-2020. Theo đó, năm 2020, thiệt hại do virus máy tính gây ra đối với người dùng Việt Nam đã đạt kỷ lục mới, vượt mốc 1 tỷ USD (23,9 nghìn tỷ đồng).

 

Bốn là, nguồn nhân lực chưa đáp ứng yêu cầu chuyển đổi sang kinh tế số. Việt Nam đang có sự thiếu hụt nguồn nhân lực chất lượng cao, nhất là nhân lực công nghệ thông tin và truyền thông. Giáo dục Việt Nam chưa theo kịp xu thế phát triển của kinh tế số, kinh tế sáng tạo của Cách mạng công nghiệp 4.0 trên thế giới.

 

Năm là, phần lớn (khoảng 70%) hoạt động thương mại điện tử chỉ diễn ra tại các thành phố lớn, hay một số tỉnh năng động như Hà Nội, Tp Hồ Chí Minh, Hải Phòng, Bắc Ninh, Vĩnh Phúc, Đồng Nai, Bình Dương….. Quy mô thương mại điện tử ở các địa phương khác, đặc biệt ở nông thôn, vùng sâu, vùng xa còn thấp. Trong khi đó, đây là khu vực có tiềm năng tiêu thụ lớn, cũng là nơi cung cấp sản phẩm đa dạng phù hợp với bán hàng trực tuyến và chiếm khoảng 70% dân số cả nước.

 

Sáu là, kết cấu hạ tầng công nghệ thông tin tuy đã được cải thiện nhanh chóng, nhưng vẫn kém xa nhiều nước trong khu vực và trên thế giới. Việc xây dựng triển khai các cơ sở dữ liệu quốc gia, hạ tầng công nghệ thông tin làm nền tảng phục vụ phát triển kinh tế số còn rất chậm so với tiến độ cần có. Còn những rào cản trong cơ chế đầu tư ứng dụng công nghệ thông tin gây khó khăn cho các doanh nghiệp trong triển khai các dự án.

 

 

Các giải pháp thực hiện mục tiêu của Chính phủ (đến năm 2025 là kinh tế số chiếm 20% GDP)

 

Để phát triển kinh tế số ở Việt Nam, tác giả kiến nghị cần tập trung vào một số giải pháp sau:

 

Thứ nhất, trước hết, cần hoàn thiện thể chế, xây dựng cơ chế quản lý phù hợp với môi trường kinh doanh số, tạo thuận lợi cho đổi mới sáng tạo. Các chính sách và quy định xuyên suốt để định hình nền kinh tế số cần bao gồm các chính sách và quy định liên quan đến các luồng dữ liệu xuyên quốc gia, bảo mật dữ liệu, an ninh mạng, bảo vệ khách hàng, giao dịch điện tử và pháp luật về thương mại điện tử và thuế. Việt Nam cần chủ động tham gia vào các khuôn khổ pháp lý khu vực và toàn cầu để phát triển kinh tế số. Có chính sách khuyến khích phát triển, hỗ trợ doanh nghiệp chuyển giao và ứng dụng các công nghệ mới; chú trọng tới các chính sách để tiếp cận với dịch vụ thanh toán an toàn và bảo đảm mang lại cơ hội thực hiện thanh toán điện tử cho cả khách hàng, doanh nghiệp trong nước cũng như nước ngoài. Tăng cường các biện pháp quản lý nhà nước trong phát triển kinh tế số nói chung, thương mại điện tử nói riêng. Để chủ động phát hiện, đấu tranh ngăn chặn kịp thời, hiệu quả vấn nạn hàng nhái, hàng giả trong thương mại điện tử, tạo niềm tin cho người tiêu dùng, cần tăng cường các biện pháp quản lý nhà nước để đấu tranh chống hàng giả, hàng không rõ nguồn gốc xuất xứ và hàng hóa xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ trong thương mại điện tử. Tăng cường quản lý và giải quyết phản ánh, khiếu nại, tranh chấp trong thương mại điện tử, bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng.

 

Thứ hai, cần trang bị kiến thức, thống nhất về tư tưởng và hành động về kinh tế số, từ đó làm chuyển biến mạnh mẽ tư duy lãnh đạo quản lý và điều hành kinh tế - xã hội trong điều kiện kinh tế số. Việt Nam cần xác định chiến lược phát triển và hội nhập kinh tế số là xu thế của thời đại, là hướng đi quan trọng và cần thiết trong định hướng phát triển quốc gia, là cơ hội cho Việt Nam bứt phá và đi tắt, đón đầu. Theo đó, cần tiếp nhận những mô hình, ý tưởng sản xuất, kinh doanh mới, khuyến khích cái mới, tạo môi trường, điều kiện và cơ hội cho cái mới ra đời và phát triển.

 

Thứ ba, phát triển đồng bộ kết cấu hạ tầng thiết yếu, bao gồm triển khai băng thông rộng chất lượng cao trên phạm vi toàn quốc; xây dựng và phát triển đồng bộ hạ tầng dữ liệu quốc gia; đầu tư nâng cấp hạ tầng kỹ thuật bảo đảm an toàn, an ninh mạng; nâng cấp hạ tầng các ngành, lĩnh vực quan trọng, thiết yếu một cách đồng bộ, hiện đại... Trong lĩnh vực truyền thông, cần hoàn thiện khuôn khổ pháp lý thuận lợi cho ứng dụng phát triển công nghệ, đẩy mạnh phát triển hạ tầng kỹ thuật số; đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin vào quản lý, khai thác, vận hành hệ thống kết cấu hạ tầng của toàn bộ nền kinh tế... Tập trung phát triển các ngành ưu tiên có mức độ sẵn sàng cao như công nghiệp công nghệ thông tin, điện tử - viễn thông; an toàn, an ninh mạng; công nghiệp chế tạo thông minh; tài chính - ngân hàng; thương mại điện tử; nông nghiệp số; du lịch số; công nghiệp văn hoá số; y tế; giáo dục và đào tạo...

 

Thứ tư, nâng cao chất lượng giáo dục đào tạo nguồn nhân lực cho nền kinh tế số. Nghiên cứu thay đổi nội dung, phương pháp đào tạo nhằm xây dựng nguồn nhân lực có khả năng tiếp nhận các xu thế công nghệ sản xuất mới; tập trung vào thúc đẩy đào tạo về khoa học, công nghệ, kỹ thuật và toán học, ngoại ngữ, tin học; xây dựng chương trình đào tạo, đào tạo lại kiến thức nghề nghiệp; cung cấp khả năng tự học tập một cách linh hoạt, phù hợp đối với từng tổ chức, cá nhân… Có chính sách kết nối với cộng đồng khoa học công nghệ trong nước với nước ngoài, đặc biệt với cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài. Xây dựng và đưa vào đào tạo chuyên ngành kinh tế số (hiện nay theo danh mục mã ngành đào tạo trình độ đại học của Bộ Giáo dục và Đào tạo chưa có mã ngành này).

 

Thứ năm, chú trọng công tác bảo vệ an ninh kinh tế, an ninh thông tin, an ninh chính trị, an ninh văn hóa và an ninh quốc gia nói chung qua không gian mạng; giám sát và phòng, chống hiệu quả các loại tội phạm mạng, tội phạm công nghệ cao. Xây dựng và triển khai hệ thống giám sát, cảnh báo sớm nguy cơ, điều phối ứng cứu sự cố mất an toàn, an ninh mạng cho các cơ quan, tổ chức, giúp bảo vệ quyền lợi chính đáng của cả người sử dụng và doanh nghiệp cung cấp dịch vụ trước những rủi ro và khi xảy ra sự cố.

 

Thứ sau, các doanh nghiệp cần tích hợp công nghệ số hóa, thúc đẩy phát triển những giải pháp sản xuất và kinh doanh dựa trên số hóa; tối ưu hóa mô hình kinh doanh, phát triển kỹ năng mới cho từng cá nhân và tổ chức, sử dụng hiệu quả chuỗi cung ứng thông minh; có giải pháp quản lý tài sản trí tuệ trong thời đại số phù hợp với những mô hình kinh doanh và các mô hình hợp tác mới. Phát triển nguồn nhân lực theo hướng tăng cường năng lực tiếp cận, tư duy sáng tạo và khả năng thích ứng với môi trường công nghệ liên tục thay đổi và phát triển.

 

https://doanhnghieptiepthi.vn/kinh-te-so-co-hoi-hien-thuc-hoa-khat-vong-viet-nam-hung-cuong-161210323132944306.htm

ĐƠN VỊ TÀI TRỢ
ĐƠN VỊ TÀI TRỢ