logo
TẬP ĐOÀN CÔNG NGHIỆP CAO SU VIỆT NAM

Chứng chỉ FSC- Cơ hội mới cho ngành cao su 20/08/2012

Nhân dịp này, phóng viên báo Kinh tế Việt Nam có cuộc phỏng vấn ông Lê Minh Châu, Phó Tổng giám đốc Tập đoàn xung quanh vấn đề ý nghĩa và tầm quan trọng của chứng chỉ này đối với các sản phẩm cao su xuất khẩu của Việt Nam nói chung và Tập đoàn Công nghiệp Cao su nói riêng.

Thưa ông, Chứng chỉ FSC có ý nghĩa như thế nào đối với Tập đoàn Công nghiệp Cao su Việt Nam và đặc biệt là các doanh nghiệp có những sản phẩm sản xuất từ gỗ và mủ cao su.

Việc Tập đoàn Cao su Việt Nam đạt được FSC-FM/CoC cho sản phẩm mủ và gỗ cao su có ý nghĩa quan trọng đối với nền kinh tế. Hàng năm, tiết kiệm một lượng lớn ngoại tệ cho nhập khẩu nguyên liệu gỗ có chứng chỉ FSC – FM. Các sản phẩm sản xuất từ gỗ và nguyên liệu mũ cao su đạt chứng nhận FSC sẽ được mang nhãn hiệu riêng theo quy định của hội đồng quản lý bền vững thế giới. Qua đó, thị trường và người tiêu dùng trên thế giới nhận biết được các sản phẩm sản xuất từ nguồn nguyên liệu khai thác. Các sản phẩm mang nhãn hiệu FSC luôn được chấp nhận tiêu thụ với giá cao hơn so với các sản phẩm khác cùng loại. Doanh nghiệp sử dụng nguyên liệu có chứng nhận FSC trong sản xuất các sản phẩm của mình sẽ nâng cao được giá trị thương hiệu sản phẩm cũng như thương hiệu của doanh nghiệp, dễ dàng xâm nhập được vào thị trường có đòi hỏi cao về nguồn gốc của nguyên liệu, công nghệ sản xuất, về sử dụng lao động và trách nhiệm đối với cộng đồng cũng như xã hội.

Năm 2011 xuất khẩu cao su Việt Nam đạt 816,5 nghìn tấn, giá trị xuất khẩu đạt 3,2 tỷ USD. Với kết quả đó, xuất khẩu cao su xếp vị trí thứ 2 trong các mặt hàng nông sản xuất khẩu của Việt Nam, sau gạo. Trong 6 tháng đầu năm 2012 xuất khẩu cao su đạt 412 ngàn tấn, kim ngạch đạt 1,3 tỷ USD.

Để được nhận chứng chỉ này Tập đoàn Công nghiệp Cao su Việt Nam phải có những nỗ lực như thế nào?

Đây là kết quả sau 18 tháng Tập đoàn Công nghiệp Cao su Việt Nam thí điểm xây dựng mô hình quản lý rừng cao su bền vững theo 10 nguyên tắc và tiêu chuẩn FSC của Hội đồng Quản lý rừng bền vững thế giới với tổng diện tích thí điểm là 11,8 nghìn ha. Tiêu chuẩn này tạo ra nguồn nguyên liệu từ những khu rừng quản lý bền vững, bảo vệ và thân thiện với môi trường, mang lại nhiều lợi ích cho cộng đồng và xã hội. Nhờ đó, Tập đoàn Công nghiệp Cao su Việt Nam và hai đơn vị thành viên là Công ty TNHH MTV Tổng Công ty cao su Đồng Nai và Công ty TNHH MTV Cao su Dầu Tiếng đã được cấp giấy chứng nhận đạt tiêu chuẩn FSC. Sự kiện này đã đưa Việt Nam trở thành quốc gia thứ năm trên thế giới có chứng nhận FSC cho rừng cao su và là quốc gia thứ ba trên thế giới có nguyên liệu mủ cao su FSC. Sản lượng mủ cao su có chứng nhận FSC tại hai đơn vị thành viên của Tập đoàn Công nghiệp Cao su Việt Nam đạt 16 nghìn đến 18 nghìn tấn/năm là đứng đầu thế giới về sản lượng cao su có chứng nhận FSC. Việc đón nhận chứng chỉ này giúp sản phẩm từ gỗ và mủ cao su xuất khẩu của tập đoàn có nhãn hiệu riêng và có giá bán cao hơn trên thị trường trong nước và thế giới. Với kết quả này, tập đoàn sẽ mở rộng diện tích rừng cao su áp dụng tiêu chuẩn FSC.

Theo ông cần những điều kiện nào để sản phẩm cao su mang thương hiệu “Made in Viêt Nam” vươn xa và phát triển bền vững tầm khu vực và thế giới?

Theo tôi muốn bất cứ một sản phẩm, thương hiệu nào của Việt Nam vươn được ra tầm khu vực và thế giới thì ngoài sự cố gắng, nỗ lực của từng doanh nghiệp cần có sự hỗ trợ của nhà nước. Thông qua các chủ trương chính sách của Chính phủ về tài chính, thuế, hỗ trợ ưu đãi xuất khẩu hải quan, các chương trình quảng bá xúc tiến thương mại.

Tập đoàn Công nghiêp Cao su Việt Nam hiện nắm giữ khoảng 50% sản lượng của cả nước và nhằm đảm bảo uy tín, chất lượng của sản phẩm mủ cao su mang thương hiệu của Tập đoàn, Tập đoàn luôn ý thức cao về công tác quản lý kĩ thuật, không ngừng hoàn thiện nâng cao chất lượng, mẫu mã sản phẩm từ khâu chọn giống, kĩ thuật trồng, chăm sóc, khai thác đến công nghệ chế biến.

Để sản phẩm mủ cao su Made in Việt Nam có vị thế xứng tầm với năng lực hiện tại và tương lai ở khu vực và thế giới theo tôi hiện vẫn còn thiếu một bàn tay nhạc trưởng chỉ huy để có thể điều tiết quản lý hoạt động của khoảng 50% sản lượng cao su còn lại từ nông dân, tiểu điền… trong việc kiểm soát quy trình sản xuất và chế biến dẫn đến chất lượng thiếu ổn định, cạnh tranh buôn bán, xuất khẩu làm ảnh hưởng đến giá bán (xuất khẩu)… Thực tế khối lượng cao su tiểu điền chủ yếu xuất sang thị trường Trung Quốc, một thị trường không đòi hỏi cao về chất lượng và thường bị động (làm giá) bởi đối tác. Để tránh vấn đề này, bên cạnh hoạt động tích cực hơn nữa của Hiệp hội Cao su, các Bộ ngành của Nhà nước, mà cụ thể là Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn, Bộ Công Thương, Hải quan cần có những quy định cụ thể về tiêu chuẩn chất lượng sản phẩm xuất khẩu, các đối tượng đủ tiêu chuẩn tham gia xuất khẩu để tránh tình trạng tranh mua tranh bán, sản phẩm không đảm bảo quy cách chất lượng dẫn đến bị ép giá gây thiệt hại chung cho ngành cao su xuất khẩu.

Xin cám ơn ông
Nguyễn Trọng thực hiện
 

ĐƠN VỊ TÀI TRỢ
ĐƠN VỊ TÀI TRỢ